Câu hỏi tư vấn: A và M có quan hệ tình cảm với nhau, tuy nhiên sau một thời gian yêu nhau không hợp nên M đã quyết định chia tay nhưng A vẫn còn muốn níu kéo. Một lần A chặn đường, khống chế và đưa M vào nhà nghỉ, tại đây A đánh đập sau đó thực hiện hành vi giao cấu với M. M sợ hãi không dám chống cự, trước khi bỏ đi A còn lấy điện thoại, túi xách trong có tiền, tài sản trị giá 6 triệu đồng. Hành vi của A có cấu thành tội Cướp tài sản hay không?

Xem thêm: Hỏi về quyền của người bị tố cáo
Luật sư tư vấn: Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban tư vấn – Văn Phòng Luật Sư An Việt – Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Với thắc mắc của bạn, VPLS An Việt xin được đưa ra quan điểm tư vấn như sau:
Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự 2015 về Tội cướp tài sản như sau:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
h) Tái phạm nguy hiểm.“
Theo thông tin mà bạn cung cấp và quy định của Điều 133 Bộ luật hình sự 2015, A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản do có đủ các yếu tố cấu thành tội cướp tài sản sau:
– Khách thể của tội phạm: xâm phạm quan hệ sở hữu tài sản và quan hệ nhân thân. Trường hợp này, hành vi của A xâm phạm quyền sở hữu tài sản của M và xâm phạm sức khỏe, tính mạng của M.
– Chủ thể của tội phạm: A 25 tuổi và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
– Mặt chủ quan của tội phạm:
+ Lỗi của A là lỗi cố ý.
+ Động cơ, mục đích phạm tội: Thông thường, khi thực hiện tội cướp tài sản, người phạm tội có ý thức chiếm đoạt trước khi có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc các hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được.
Bản chất hành vi trong mặt khách quan của tội cướp tài sản là chiếm đoạt được và hành vi chiếm đoạt đã thể hiện được bản chất của tội này (bao hàm cả mục đích chiếm đoạt), đồng thời là căn cứ phân biệt tội cướp tài sản với các tội khác, nhất là đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Trường hợp này, có thể ban đầu A chưa có ý định cướp tài sản nhưng tất cả hành vi dùng vũ lực và đưa M vào tình trạng không thể kháng cự được rồi chiếm đoạt tài sản của M đã thể hiện được bản chất của việc cướp tài sản.
– Mặt khách quan của tội phạm thể hiện qua các hành vi:
+ Hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực ngay tức khắc: A chặn đường, khống chế, đưa M vào nhà nghỉ, đánh đập và giao cấu với M làm M lâm vào tình trạng không thể chống cự được.
+ Hậu quả của tội phạm: Tài sản của M bị A chiếm đoạt. Tội phạm hoàn thành từ khi A lấy điện thoại và tiền trong túi xách của M.
Trường hợp này, trước khi chiếm đoạt tài sản của A, M đã có hành vi dùng vũ lực và giao cấu trái với ý muốn của A nên M còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội hiếp dâm.
Trên đây là phần nội dung tư vấn của Ban tư vấn – Văn Phòng Luật Sư An Việt – Đoàn luật sư thành phố Hà Nội về nội dung mà bạn hỏi. Nếu còn vấn đề vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp tư vấn thêm, bạn vui lòng trực tiếp đến văn phòng tại địa chỉ: P.1108 Toà nhà N02 Số 35 Tân Mai – Hoàng Mai – Hà Nội. Điện thoại: 0982 205 385/ 0944 555 975.
Trân trọng!
Xem thêm bài viết khác: Trách nhiệm hình sự đối với hành vi cố ý gây thương tích nhưng chưa đạt